Lockheed F-117A Nighthawk
Thiết bị quân sự

Lockheed F-117A Nighthawk

F-117A là biểu tượng cho sự vượt trội về công nghệ của Mỹ trong Chiến tranh Lạnh.

F-117A Nighthawk được Lockheed chế tạo để đáp ứng nhu cầu của Không quân Hoa Kỳ (USAF) về một nền tảng có khả năng đánh lén hệ thống phòng không của đối phương. Một chiếc máy bay độc nhất vô nhị đã được tạo ra, nhờ hình dáng khác thường và hiệu quả chiến đấu huyền thoại, đã đi vào lịch sử ngành hàng không quân sự mãi mãi. F-117A được chứng minh là máy bay có tầm nhìn rất thấp (VLO) đầu tiên, thường được gọi là "tàng hình".

Kinh nghiệm của Chiến tranh Yom Kippur (cuộc chiến giữa Israel và liên quân Ả Rập năm 1973) cho thấy hàng không bắt đầu mất đi sự cạnh tranh "vĩnh cửu" với các hệ thống phòng không. Các hệ thống gây nhiễu điện tử và phương pháp che chắn các trạm radar bằng cách "mở ra" các lưỡng cực điện từ có những hạn chế và không cung cấp đủ vỏ bọc cho ngành hàng không. Cơ quan Dự án Nghiên cứu Tiên tiến Quốc phòng (DARPA) đã bắt đầu xem xét khả năng "bỏ qua hệ thống" hoàn toàn. Khái niệm mới liên quan đến việc phát triển công nghệ để giảm bề mặt phản xạ radar hiệu quả (Mặt cắt ngang Radar - RCS) của máy bay xuống mức ngăn cản sự phát hiện hiệu quả của nó bởi các trạm radar.

Tòa nhà số 82 của nhà máy Lockheed ở Burbank, California. Máy bay được phủ một lớp sơn hấp thụ vi sóng và sơn màu xám nhạt.

Năm 1974, DARPA đưa ra một chương trình được gọi là Dự án Harvey. Tên của nó không phải ngẫu nhiên - nó được gọi là bộ phim "Harvey" vào năm 1950, nhân vật chính trong đó là một con thỏ vô hình cao gần hai mét. Theo một số báo cáo, dự án chưa có tên chính thức trước khi bắt đầu giai đoạn "Have Blue". Một trong những chương trình của Lầu Năm Góc lúc đó được gọi là Harvey, nhưng nó mang tính chiến thuật. Có thể sự lan truyền của cái tên "Dự án Harvey" được liên kết với các hoạt động thông tin sai lệch xung quanh các chủ trương của thời điểm đó. Là một phần của chương trình DARPA, nó đã yêu cầu các giải pháp công nghệ để giúp giảm RCS của một máy bay chiến đấu tiềm năng. Các công ty sau đã được mời tham gia vào chương trình: Northrop, McDonnell Douglas, General Dynamics, Fairchild và Grumman. Những người tham gia chương trình cũng phải xác định xem họ có đủ nguồn lực và công cụ để chế tạo một chiếc máy bay RCS cực thấp khả thi hay không.

Lockheed không có tên trong danh sách DARPA vì công ty đã không sản xuất máy bay chiến đấu trong 10 năm và người ta quyết định rằng họ có thể không có kinh nghiệm. Fairchild và Grumman đã bỏ chương trình. Về cơ bản, General Dynamics đã đề nghị xây dựng các biện pháp đối phó điện tử mới, tuy nhiên, điều này không đạt được kỳ vọng của DARPA. Chỉ McDonnell Douglas và Northrop trình bày các khái niệm liên quan đến việc giảm bề mặt phản xạ radar hiệu quả và chứng minh tiềm năng phát triển và tạo mẫu. Vào cuối năm 1974, cả hai công ty đều nhận được 100 PLN mỗi công ty. Hợp đồng USD để tiếp tục công việc. Ở giai đoạn này, Lực lượng Không quân tham gia chương trình. Nhà sản xuất radar, Hughes Aircraft Company, cũng tham gia đánh giá hiệu quả của các giải pháp riêng lẻ.

Vào giữa năm 1975, McDonnell Douglas đã trình bày các tính toán cho thấy tiết diện radar của một chiếc máy bay sẽ phải thấp đến mức nào để khiến nó gần như "vô hình" trước các radar thời đó. Các tính toán này đã được DARPA và USAF lấy làm cơ sở để đánh giá các dự án trong tương lai.

Lockheed bắt đầu chơi

Vào thời điểm đó, ban lãnh đạo của Lockheed đã biết đến các hoạt động của DARPA. Ben Rich, người từ tháng 1975 năm 12 đã đứng đầu bộ phận thiết kế tiên tiến có tên là Skunk Works, đã quyết định tham gia chương trình này. Ông được hỗ trợ bởi cựu giám đốc Skunks Works Clarence L. "Kelly" Johnson, người tiếp tục giữ chức vụ kỹ sư tư vấn trưởng của bộ phận. Johnson đã yêu cầu Cơ quan Tình báo Trung ương Mỹ cho phép đặc biệt để tiết lộ kết quả nghiên cứu liên quan đến các phép đo tiết diện radar của máy bay trinh sát Lockheed A-71 và SR-21 và máy bay không người lái trinh sát D-XNUMX. Những tài liệu này do DARPA cung cấp như một bằng chứng về kinh nghiệm của công ty với RCS. DARPA đã đồng ý đưa Lockheed vào chương trình, nhưng ở giai đoạn này không thể ký hợp đồng tài chính với anh ta nữa. Công ty tham gia chương trình bằng cách đầu tư quỹ của chính mình. Đây là một loại trở ngại đối với Lockheed, bởi vì, không bị ràng buộc bởi hợp đồng, anh ta không từ bỏ quyền đối với bất kỳ giải pháp kỹ thuật nào của mình.

Các kỹ sư của Lockheed đã mày mò với khái niệm chung về việc giảm diện tích phản xạ hiệu quả của radar trong một thời gian. Kỹ sư Denis Overholser và nhà toán học Bill Schroeder đã đưa ra kết luận rằng có thể đạt được sự phản xạ hiệu quả của sóng radar bằng cách sử dụng càng nhiều bề mặt phẳng nhỏ ở các góc khác nhau càng tốt. Họ sẽ hướng các vi sóng phản xạ lại để chúng không thể quay trở lại nguồn, tức là tới radar. Schroeder đã tạo ra một phương trình toán học để tính mức độ phản xạ của các tia từ một mặt phẳng hình tam giác. Dựa trên những phát hiện này, giám đốc nghiên cứu của Lockheed, Dick Scherrer, đã phát triển hình dạng ban đầu của máy bay, với một cánh lớn, xiên và thân máy bay gồm nhiều máy bay.

Thêm một lời nhận xét